Khoa cử ngày xưa thường trải qua những kỳ thi khốc liệt, chặt chẽ, hàng nghìn sĩ tử dự thi chỉ lấy hơn chục người đỗ đại khoa (tiến sĩ trở lên). Trong đó, sử Việt từng lưu danh gia đình có tới 5 đời liên tiếp đỗ tiến sĩ.
Theo sách Những người thầy trong lịch sử Việt Nam, trong số 2.898 người đỗ đại khoa từ năm 1075 đến 1919, dòng họ Ngô (ở vùng Lý Trai, Nghệ An) có tới 5 người.
Hai cha con cùng đỗ tiến sĩ
Theo gia phả của dòng họ Ngô Trí ở Diễn Châu (Nghệ An), cụ Ngô Công Định (Ngô Định), quê ở Bắc Ninh vào Nghệ An lập nghiệp vào cuối thế kỷ XV. Bà thủy tổ của dòng họ là Chu Thị Bột đem toàn bộ gia sản ban cho người nghèo, không còn gì để lại cho con cháu.
Sau này, khi bà và chồng qua đời, hai con Ngô Ngọc và Ngô Định rơi vào cảnh nghèo khổ. Anh cả Ngô Ngọc được cậu nhận nuôi ăn học tại quê nhà. Ngô Định được cho làm con nuôi một người quê Đông Thành (Nghệ An), vốn làm trong quân ngũ, đóng ở đất Kinh Bắc.
Trước cảnh anh em ly biệt, dân gian có truyền nhau bài ca như sau: “Một gốc trăm cành nảy họ Ngô / Chuyện bà thí thóc để muôn thu / Mất mùa thương kẻ ăn rau cháo / Làm phúc đến lúc dốc bịch bồ / Hai chữ vinh hoa bia miệng dệt / Năm đời liên trúng phấn son tô / Còn trời còn đất còn non nước / Thóc tổ còn nhiều chẳng phải lo”.
Sau này, bố nuôi về hưu, đưa Ngô Định đi theo vào định cư ở đất Lý Trai (nay thuộc xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu) lập ra dòng thứ họ Ngô, được gọi là họ Ngô Lý Trai.
Con cháu họ Ngô vượt lên hoàn cảnh, cố học hành. Đến đời thứ 5 tính từ cụ thủy tổ, dòng họ này bắt đầu có người đỗ đại khoa.
Người đỗ khai khoa cho dòng họ Ngô Lý Trai là hai cha con cụ Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa. Tại khoa thi Nhâm Thìn năm (1592) đời vua Lê Thế Tông, hai cha con đi thi, cùng đỗ đại khoa.
Ngô Trí Tri đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, năm đó 53 tuổi (có tài liệu ghi 56). Con trai ông là Ngô Trí Hòa đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), năm 28 tuổi.
Lúc vinh quy bái tổ, vua Lê Thế Tông đích thân tặng một bức trướng hồng có thêu mười chữ vàng: “Khoa danh thiên hạ hữu / Phụ tử thế gian vô”. Nghĩa là, khoa danh trong thiên hạ thì ai cũng có thể có, nhưng hai cha con cùng đỗ một khoa thì chưa thấy bao giờ.
Theo nội dung Văn bia số 21 tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội, đây là lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam có hai cha con cùng đỗ tiến sĩ trong một khoa thi.
Bài ký đề tên tiến sĩ khoa thi đó đã ghi lại hiện tượng này như một biểu tượng của triều đại thịnh trị, thanh bình: “Ai nấy đều lấy làm sung sướng được trông thấy cảnh đời thái bình, dưới triều vua thánh, có cha con cùng đỗ một khoa thật là thịnh hội và văn minh vậy”.
Trường hợp đặc biệt trong sử Việt
Tính từ khi hai cha con Ngô Trí Tri đỗ khai khoa cho họ Ngô Lý Trai, dòng họ này liên tiếp có người đỗ đạt, làm quan to trong triều đình.
Theo gia phả dòng họ Ngô Lý Trai tại Diễn Châu, cụ Ngô Trí Tri sau khi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đã làm quan tới chức Giám sát ngự sử đạo Quảng Nam, thăng lên làm Tả thị lang bộ Lễ. Sau này, cụ về nghỉ tại quê nhà, dạy bảo con cháu học hành.
Người con trai Ngô Trí Hòa sau khi đỗ Hoàng giáp năm 1592, ra làm quan tới chức Hiến sát sứ Sơn Tây. Năm 1623, ông có công dẹp loạn ở Sơn Tây, được gia phong Thiếu bảo, phong Hiệp Mưu tá lý dục vân tán trị công thần, xếp vào hàng công thần trung hưng của triều Lê, làm quan tới Thượng thư bộ Hộ kiêm chức Tế tửu Quốc Tử Giám.
Con trai cụ Ngô Trí Hòa là Ngô Sĩ Vinh (1596 – ?) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái (1646) đời vua Lê Chân Tông, làm quan tới chức Quang Lộc Tự khanh. Khi mất, ông được truy tặng chức Tằng Tả thị lang, tước hầu.
Hai người cháu nhánh trên của cụ Ngô Sĩ Vinh là Ngô Công Trạc đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1694 đời vua Lê Hy Tông và Ngô Hưng Giáo đỗ tiến sĩ năm 1710.
Như vậy, dòng họ Ngô Lý Trai trải qua 5 đời liên tiếp có 5 người đỗ đại khoa. Bàn về việc này, sách Lịch triều hiến chương loại chí có nhận định về cụ Ngô Trí Hòa và dòng họ Ngô Lý Trai như sau: “Ông học vấn hơn người, chính thuật có thừa, trải khắp trong ngoài đối xử chỗ nào cũng vừa; công lao tiếng tăm rõ rệt. Lại là bậc danh thần của ba triều, cha con đồng khoa, phúc nhà lâu dài, càng là việc xưa nay ít thấy”.
GS Lê Văn Lan cho rằng hai cha con đồng khoa, đồng triều này là người đã nêu bật được cả hai vế của truyền thống khoa cử Việt Nam, hiếu học nhưng phải đỗ đạt, mà phải là đại khoa.
Đây là biểu hiện cho đỉnh cao của trí tuệ. Dù bị khuôn vào mô hình khoa cử truyền thống, nó vẫn biểu hiện được tất cả giá trị, phẩm chất tinh thần người Việt lúc bấy giờ.
Một truyền thống đã được tạo ra từ sự kiện hai cha con đồng khoa, đồng triều là đều say sưa, miệt mài, cố công học hành và gắng công thi cử để có được danh vị rất vẻ vang, 5 đời liên tiếp đỗ tiến sĩ.